Giỏ hàng của bạn trống!

HỒN THƠ DÂNG SÓNG NHẠC (77 CA KHÚC PHỔ THƠ NGUYỄN NGỌC HẠNH)

26/12/2021

Nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha

Trong nghệ thuật, thơ thường giao hòa với các loại hình khác như kịch, họa, âm nhạc... một cách rất tự nhiên, nhưng khắng khít nhất vẫn là thơ phổ nhạc để trở thành ca khúc. Người ta có thể đếm được số tác phẩm kịch thơ từ Tiếng Địch sông Ô (Phạm Huy Thông), Vân muội (Vũ Hoàng Chương), Hận Nam Quan, Kiều Loan (Hoàng Cầm), Bóng giai nhân (Yến Lan - Nguyễn Bính) v.v... Cũng có thể thấy những họa phẩm minh họa thơ Hồ Xuân Hương của Bùi Xuân Phái, minh họa Kiều của Nguyễn Tư Nghiêm hay triển lãm thơ-gốm của Lê Thiết Cương... Nhưng không thể đếm xuể những bài thơ được phổ nhạc trở thành những ca khúc nổi tiếng. Hầu như nhà thơ nào cũng có một vài bài thơ phổ nhạc. Song thơ thường xuyên được phổ nhạc để tạo ra một kỷ lục thì chỉ thấy trước đây có nhà thơ Tạ Hữu Yên và thần đồng thơ Trần Đăng Khoa (nay là Phó Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam)... Và đến hôm nay là Nguyễn Ngọc Hạnh sống ở thành phố Đà Nẵng, nhưng quê anh tận đầu nguồn sông Vu Gia, Đại Lộc, Quảng Nam.

Sở dĩ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh có duyên được nhiều nhạc sĩ chú ý đến vậy, có lẽ là do hồn thơ Hạnh dâng sóng nhạc sinh ra bao giai điệu dập dồn như sóng biển Tiên Sa xô dạt vào bờ bãi sông Hàn từng giây, từng phút. Điều hết sức thú vị là có những bài thơ của Hạnh được đến hai, ba nhạc sĩ cùng phổ thành ca khúc. Phan Huỳnh Điểu, Đình Thậm và Trịnh Tuấn Khanh, mỗi người một cảm xúc, một cách tiếp nhận khác nhau thông qua giai điệu riêng của mình để đến với “Làng” của Nguyễn Ngọc Hạnh. Cái làng ấy ra đi với nỗi lòng của những người con xa xứ trong lời thơ ý nhạc của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đầy vơi thương nhớ quê nhà. “Ký ức làng quê” của Trịnh Tuấn Khanh với giai điệu bồng bềnh đằm thắm, chất chứa bao hoài niệm tuổi thơ. Và đến khi nhạc sĩ Đình Thậm trở về thăm làng quê Nguyễn Ngọc Hạnh, quê hương người bạn tri âm của mình bên con sông Vu Gia, Đại Lộc, thì bỗng nhiên giai điệu vỡ òa, bùng cháy, “Làng” trong thơ Hạnh trở thành “Làng trong tôi” thân thuộc như chính đất mẹ quê hương Đình Thậm. Hai câu thơ hay của Nguyễn Ngọc Hạnh mà nhiều người thuộc: “Xưa tôi sống trong làng/ Giờ làng sống trong tôi” từ cuối bài thơ được nhạc sĩ đưa lên trở thành câu mở đầu cho bài hát đầy ấn tượng. Và từ đó, giai điệu cứ tràn đầy trào dâng bao cảm xúc, chất chứa hồn thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, nơi “con sông quê, bóng núi chập chờn”...

Và, “Đà Nẵng trên cao” là bài hát cũng được nhạc sĩ Trọng Đài gần như đưa nguyên vào giai điệu và cả tên bài thơ vào ca khúc. Còn với Lê Anh thì nó hóa thành “Bài thơ trên cao” chót vót Bà Nà với những sắp xếp theo cách cảm riêng của mình. Cách nào cũng có cái hay riêng của từng nhạc sĩ, tất cả đều chắp cánh cho bài thơ bay lên những cung bậc chất ngất trong vòm trời sáng tạo, đa chiều. Mà cũng chẳng hiểu vì sao nhạc sĩ Trọng Đài lại phổ rất nhiều thơ của Nguyễn Ngọc Hạnh, đến cả chục bài. Có lẽ nhạc sĩ và nhà thơ bắt được tần số cộng hưởng giữa thi ca và âm nhạc, giữa tri âm, buồn vui bất chợt giữa cuộc đời này. Trong đó, bài “Biển lặng” mà Trọng Đài phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh lại có một giao thoa cùng nữ nhạc sĩ Quỳnh Hợp trong ca từ và cả điệu thức La thứ. “Biển lặng” của Trọng Đài thực sự là biển lặng rất mi-nơ, chút ít giông gió thì cũng chỉ là một thoáng gợi ma-giơ bởi nốt Đô thăng. Còn ở Quỳnh Hợp thì có vẻ như lặng mà không lặng. Điều đó được xuất hiện trong đoạn codo được điệp khúc cho đoạn kết của bài hát. Sau khi đã cho biển thật lặng bằng cách trở về chủ âm ngỡ như đã an bài, nữ nhạc sĩ tinh quái đẩy giai điệu lên bất ngờ với một hòa âm của điệu thức Đô trưởng - điệu thức của hạ át âm với chủ âm La - điệu thức đồng hóa biểu với điệu thức La thứ. Cũng là gợi chút mi-nơ sang ma-giơ những không phải là Đô thăng mà là Fa bình rồi sau đó mới chịu về La thứ. Song khi quay lại thì không kết ở chủ âm mà ở át âm mi làm cho ca khúc chơi vơi, chênh vênh một vẻ đẹp thật nữ tính. Một variante khác với nhạc sĩ Trọng Đài. Thế mới thấy sáng tạo thật thú vị, chẳng ai giống ai. Ai cũng thể hiện được cái hay của mình. Cũng đều dâng lên từ hồn thơ, nhưng sóng nhạc cứ dập dìu theo một tần số cảm xúc khác biệt nhau. Đấy là những điều thú vị mà ở các tuyển tập thơ phổ nhạc khác có thể chưa từng thấy; là cái làm nên sự say đắm của “Khúc ru trầm”, 77 ca khúc phổ thơ của Nguyễn Ngọc Hạnh.

Còn với chàng “cao bồi TexasNguyễn Cường thì hồn thơ Nguyễn Ngọc Hạnh được chàng dìu dắt vào một khúc nhạc chiều (Serenade) cũng ở điệu thức Đô trưởng nhưng không ngẩn ngơ luyến tiếc như Khúc nhạc chiều của Enrico Toselli mà Phạm Duy từng dịch lời: “Lắng trong tiếng chiều ngân/ Nhạc dập dìu ái ân” mà là sự ngạc nhiên hồn hậu: “Mưa cong vút lên trời hoàng hôn/ Chiều chậm trôi mờ xa vơi đầy/ Thơ bay vút lên lưng chừng mây/ Như là em rơi trong thu gầy”. Bản “Serenade -Thu rơi” là một ấn tượng “song kiếm hợp bích” giữa nhà thơ và nhạc sĩ. Đấy là với Nguyễn Cường. Còn với Đình Thậm, thì ca khúc “Đêm xa làng” phổ bài thơ cùng tên (đoạt giải Nhì, không có giải Nhất của Hội nhạc sĩ VN 2019), là một cách bứt phá trong sự chuyển đổi bút pháp: đoạn đầu ở điệu thức rê thứ, đoạn sau lại chuyển điệu sang rê trưởng, nhưng cách chuyển không có dấu vết gì của nhạc tiền chiến hay nhạc Sài Gòn trước năm 1975. Đình Thậm không ngờ chính hồn thơ Nguyễn Ngọc Hạnh đã khơi gợi tố chất rất bản thể trong anh, để nó bật tung giai điệu lên một cách khác thường.

Nhạc sĩ Hoài An, tác giả của “Nếu Chỉ Còn Một Ngày Để Sống, Tình thơ, Tình Khúc Vàng...” nổi tiếng cũng rung động cùng hồn thơ Nguyễn Ngọc Hạnh bằng cảm giác người đàng trong ra thăm Hà Nội qua “Hà Nội mình tôi”. Đọc giai điệu lên, nghe thương lạ: “Chỉ mình tôi côi cút phố đêm/ Ngỡ như lạc vào cõi khác/ Ở đây bốn bề dịu ngọt/ Mà bơ vơ từng bước lặng thầm”... Còn nhạc sĩ Thế Bảo thì lại cảm nhận sự bơ vơ của mình ở Hà Nội khác với Hoài An qua “Hà Nội phố đêm”. Có lẽ vì anh có tâm trạng của một người đã từng học, từng sống với Hà Nội một thời, cho nên khi trở lại Thế Bảo có những cảm xúc thật tràn trề, dào dạt. Điều đó thấy rõ ngay khi anh dùng chùm luyến bốn nốt móc kép cho một chữ “còi” trong ca từ: “Anh trôi theo tiếng còi tàu”. Tiếp theo là những nhịp ngắt như tiếng thở dài: “Mông lung - mông lung/ xao xác đến mông lung” rồi “Heo may - heo may/ tan chảy đến tận cùng”. Và đến khi không chịu được nữa, anh đã kéo tác giả thơ đi theo sự thăng trầm của chính mình bằng một quãng tám tiến, quãng bảy tiến và quãng tám lùi: “Phờ phạc phố - phờ phạc đêm - lối về nơi phố cổ...” lặng thầm.

Tác giả trẻ Nguyễn Trần Đức Anh thì trôi theo cùng Nguyễn Ngọc Hạnh trong “Chiều cuối năm” với một nhịp 3/4 lạ, nghiêng về tiết điệu bolero: “Đâu còn em bên tôi/ Một mình bơ vơ lắm/ Xa rồi người yêu ơi/ Chiều đi qua một bóng”, thật buồn. Cũng như bài “Làng” nói ở trên có đến ba nhạc sĩ phổ nhạc, bài thơ “Ngõ hẹp” của Nguyễn Ngọc Hạnh có một cái tứ lạ khiến cả ba nhạc sĩ: Võ Hoài Phúc, Trịnh Thùy Mỹ, Trương Công Ảnh đi tìm sự giằng xé nội tâm qua những giai điệu sâu lắng, chìm đắm trong lối mòn đường quê của nhà thơ: “Tôi đã mòn/ và đời thôi đã hẹp/ lối nhỏ dần nhỏ dần/ lấp khuất/ ngày thì xa mờ mịt/ chỉ lòng tôi chưa cạn đêm sâu”. Nhạc sĩ Võ Hoài Phúc đã thành công hơn khi cùng hồn thơ Nguyễn Ngọc Hạnh chậm rãi, tự sự về nơi “Ngõ hẹp” đầu nguồn...

Một trong các nhạc sĩ trẻ trong “Khúc ru trầm”, có lẽ là Huỳnh Văn Tấn. Còn nhớ ngày Nguyễn Ngọc Hạnh ra mắt tập thơ “Phơi cơn mưa lên chiều” ở Hà Nội, Tấn xuất hiện và ôm đàn guitar hát những ca khúc phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh gây bao xúc động cho người xem, Vốn là người đồng hương thân thiết với Nguyễn Ngọc Hạnh, Tấn đã có những cộng hưởng của những người sinh ra từ làng bên con sông quê Đại Lộc không chỉ là nỗi nhớ quê mà còn cả niềm đau ngay chính từ trong bài hát “Khúc ru trầm” mà nhạc sĩ đã phổ từ bài thơ “Nhớ con” của Nguyễn Ngọc Hạnh. Hạnh đã chọn tên cho tuyển tập 77 ca khúc phổ thơ này là “Khúc ru trầm” như một hoài niệm nhớ thương về đứa con gái xinh đẹp vốn có năng khiếu và rất yêu âm nhạc đã ra đi quá sớm.

Các nhạc sĩ phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh thuộc các thế hệ nhạc sĩ khác nhau từ thời tiền chiến đến hậu chiến, rồi đến các thế hệ nhạc sĩ của thế kỷ mới bây giờ. Không chỉ các nhạc sĩ trong Nam như Thế Bảo, Hoài An, Võ Hoài Phúc, Quỳnh Hợp, Minh Trí, Trung Kim, Quỳnh Lệ, Trịnh Thùy Mỹ… mà còn có nhiều nhạc sĩ ở ngoài Bắc phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh như Trọng Đài, Trọng Lưu, Nguyễn Cường, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Vĩnh Tiến (tác giả “Bà tôi” nổi tiếng), Nguyễn Trần Đức Anh (Hà Nội), Dương Văn Lợt (Kon Tum), Lê Anh (Huế). Đặc biệt, nhiều nhạc sĩ ở Quảng Nam, Đà Nẵng đã dâng sóng nhạc cùng nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh như Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn Huy Hùng, Huỳnh Ngọc Hải, Đinh Gia Hòa, Diệp Chí Huy, Trịnh Tuấn Khanh, Nguyễn Đình Thậm, Quang Khánh, Nguyễn Duy Khoái, Nguyễn Xuân Minh, Thái Nghĩa, Trần Ái Nghĩa, Nguyễn Đức, Thu Nguyễn, Nam An, Thái Phú, Phan Trường Sơn, Trương Công Ảnh, Huỳnh Văn Tấn, Hoàng Bích. Và 2 nhạc sĩ ở Hải ngoại là Phạm Đăng Khương hiện đang sống tại bang Aiona, Hoa Kỳ với ca khúc “Bến mê” và đặc biệt nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Tiến ở Texas, người đã phổ bài thơ “Qua đò nhớ mẹ” của Nguyễn Ngọc Hạnh cách đây mấy mươi năm. Ca khúc này từng phát sóng trên VTV1 và được nhiều ca sĩ tên tuổi biểu diễn trong và ngoài nước. Bởi thế nên việc in tuyển “77 ca khúc phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh” không chỉ là một tổng kết của một chặng đường thơ, mà “Khúc ru trầm” còn là những cuộc giao thoa đầy kỷ niệm giữa thơ và âm nhạc trên con đường sáng tạo của mình.

Tuyển tập Khúc ru trầm với 77 ca khúc phổ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh chính là một đánh giá đích thực về phẩm chất thơ của người thơ này mà có thể rất nhiều bài viết về thơ anh vẫn chưa nói hết. Nó khẳng định một chặng đường thơ mà Nguyễn Ngọc Hạnh đã khiêm nhường dâng hiến cho đời.

Hà Nội, tháng 11.2021

Không có bình luận nào cho bài viết.

Viết bình luận: